Hieuloc Aqua: Phân trắng là một loại bệnh phổ biến trong tôm nuôi thường bắt đầu từ thời điểm tôm nuôi được 50 ngày trở đi. Bệnh phân trắng khó trị dứt điểm và hiện nay vẫn chưa có một biện pháp cụ thể hữu hiệu nào để điều trị hội chứng này.

Bệnh phân trắng trên tôm

Triệu chứng

Tôm giảm ăn, màu sắc chuyển sang màu sậm hơn.

Gan, tụy chuyển màu nhợt, mềm nhũn, ruột và phân chuyển sang màu vàng hoặc trắng.

Tôm mềm vỏ.

Mang chuyển sang màu tối.

Xuất hiện các sợi phân trắng hoặc vàng nâu tại nhá hoặc nổi trên mặt ao và dồn vào góc ao hoặc cuối hướng gió.

Nguyên nhân gây bệnh

Có 4 nguyên nhân chính:

- Do thức ăn: Thức ăn không tốt, thức ăn bị nhiễm nấm mốc, độc tố...tôm ăn phải thức ăn không tốc trên bị bị bệnh đường ruột.

- Do tảo độc: Tôm ăn phải tảo độc, tảo tiết ra emzyme làm tê liệt lớp biểu mô ruột, làm ruột không hấp thu thức ăn được, tôm bị bệnh.

- Ký sinh trùng (Gregarine): bám trên thành ruột.

- Do vi khuẩn: vi khuẩn gây bệnh phân trắng thường gặp thuộc các chuẩn Vibrio. Có thể nói rằng môi trường ô nhiễm là nguyên nhân tạo điều kiện cho tảo độc, vi khuẩn, virus phát triển và xâm nhập vào cơ thể tôm.

Bệnh thường xuất hiện tại những ao nuôi có các đặc điểm sau:

Tảo tàn trước đó, nồng độ NH₃ cao.

Xuất hiện tảo lam.

Nồng độ các chất hữu cơ cao > 100 ppm.

Nồng độ Vibrio ao > 1 x 102 CFU/ml.

Độ kiềm < 80 ppm và > 200 ppm.

Nồng độ oxy < 3 ppm trong thời gian dài.

Nhiệt độ > 32°C.

Các nhóm tác nhân gây bệnh

Nhóm Vibrio.

Nhóm độc tố gây tổn thương hệ thống gan tụy và đường ruột gồm:

- Độc tố bởi nấm từ thức ăn: Thức ăn trong mùa mưa, điều kiện bảo quản không tốt khiến độ ẩm cao và sản sinh ra các loài nấm mốc tiết độc tố.

- Độc tố bởi tảo độc (Cyanobacteria)

- Microspoeidian Enterocytozoon hepatopenaei (EHP).

- Các cấu trúc của nhóm tảo Silica diatom: do có lớp vỏ cứng sắc nhọn khi chết khiến hệ tiêu hóa bị tổn thương.

- Ký sinh trùng Gregarine.

Các giải pháp phòng ngừa và điều trị

Phòng ngừa

Kiểm soát Vibrio trong ao bằng cách luôn duy trì nồng độ thấp các chất hữu cơ, là nguồn dinh dưỡng cho Vibrio phát triển. 

Kiểm soát bằng cách: Quản lý lượng thức ăn ăn đúng nhu cầu và nhiệt độ của nước, xi phông loại bỏ các chất thải, duy trì mật độ tảo, sử dụng vi sinh phân hủy các chấy hữu cơ đáy ao và nước.

Cho ăn lượng thức ăn theo nhiệt độ nước: Khi nhiệt độ nước tăng cao > 320C, tôm thường ăn nhiều hơn nhưng thời gian thức ăn đi qua hệ thống tiêu hóa rất ngắn làm tăng lượng chất thải trong ao. Nhiệt độ cao cũng làm vi khuẩn phát triển nhanh hơn. Do vậy, khi nhiệt độ nước tăng cao, không tăng lượng thức ăn theo cách kiểm tra nhá thông thường:

- Bổ sung đầy đủ các chất tăng cường sức khỏe của tôm như vitamin và khoáng chất thiết yếu.

- Bảo quản tốt và kiểm tra hạn dùng của thức ăn, độ ẩm, độ mốc.

Kiểm soát tốt các loài tảo độc, độ kiềm trong ao.

Luôn duy trì cân bằng hệ vi khuẩn có lợi trong ao bằng việc bổ sung thường xuyên vi sinh và duy trì hàm lượng oxy lớn hơn 5 ppm.

Điều trị

Ngừng cho ăn hoàn toàn trong vòng 1 - 2 ngày.

Chạy quạt tăng cường ôxy nhiều nhất có thể.

Thay nước sạch đã xử lý 30 - 50% (Chú ý thay chậm để không làm tôm sốc).

Tìm các giải pháp phù hợp để làm giảm nồng độ các chất hữu cơ trong ao (nếu ao thường xuyên xi phông thì dùng chất lắng tụ rồi xi phông sạch ra ngoài. Trường hợp ao không được xi phông trước đó thì chỉ dùng vi sinh, không được làm xáo trộn đáy ao khiến khí H2S khuếch tán vào nước gây chết tôm).

Sử dụng vi sinh với liều cao gấp 3 lần so với liều bình thường xử lý nước và đáy ao.

Trộn xen kẽ các nhóm vi sinh tiêu hóa và tỏi (10g/kg)  vào thức ăn để cho tôm ăn (không trộn tỏi cùng vi sinh vì tỏi có thể làm bất hoạt vi sinh).

Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên trong vòng 5 ngày liên tục.